Một đòn bẩy quan trọng để giảm tác động đến môi trường trong các sản phẩm của chúng tôi Đối mặt với nhận thức ngày càng tăng về sự cấp thiết phải bảo vệ hành tinh, cùng với áp lực từ người dân, chính phủ và các tổ chức quốc tế, các công ty đã bắt đầu đưa ra các sáng kiến nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường trong các hoạt động của họ cũng như xem xét toàn bộ vòng đời sản phẩm của họ. Chuỗi cung ứng giám sát dòng chảy từ đầu đến cuối của một sản phẩm, từ nhà cung cấp đến khách hàng cuối cùng, bắt đầu từ khái niệm đến quá trình đóng gói, vận chuyển, xử lý và lưu trữ, cho đến việc tiêu hủy hoặc tái chế. Chuỗi cung ứng, và đặc biệt là các công ty hậu cần là trung tâm của hệ thống. Các công ty hậu cần có thể cung cấp sự hỗ trợ cho các đối tác của mình để mọi mắt xích trong chuỗi cung ứng đều có tác động tối thiểu đến môi trường.
Quá trình bắt đầu bằng việc đo lường. Vào năm 2018, Ủy ban Châu Âu đã thiết lập một phương pháp để xem xét tất cả các yếu tố trong vòng đời của sản phẩm mà có thể ảnh hưởng đến môi trường, bao gồm việc biến đổi khí hậu, bảo vệ tầng ôzôn, tiêu thụ nước, sử dụng đất, phát thải vật chất dạng hạt và sự cạn kiệt tài nguyên. Phương pháp, được gọi là Tác Động Môi Trường Của Sản Phẩm (Product Environmental Footprint – PEF) xem xét đồng thời 16 danh mục được tiêu chuẩn hóa và có trọng số, cho phép một sản phẩm được chỉ định theo một đánh giá về tác động môi trường chung và có thể so sánh được.
Ví dụ, khi nhìn vào một chiếc áo phông, chúng ta dễ dàng nghĩ rằng nếu chiếc áo được sản xuất gần đó, nó có ảnh hưởng đến môi trường nhỏ hơn so với hàng nhập khẩu, do lượng khí thải được tạo ra khi vận chuyển một mặt hàng từ nơi sản xuất đến nhà bán lẻ nhiều hơn. Nhưng trên thực tế, lượng khí thải từ phương tiện giao thông ít hơn 5% so với tác động của một chiếc áo. Nếu áo phông được làm bằng cotton, khoảng 40-50% tổng tác động môi trường của nó đến từ các điều kiện mà bông được trồng trọt, cày cấy.
CHUỖI CUNG ỨNG GIÁM SÁT TOÀN DIỆN DÒNG SẢN PHẨM TỪ ĐẦU ĐẾN CUỐI, TỪ NHÀ CUNG CẤP ĐẾN KHÁCH HÀNG CUỐI CÙNG, BẮT ĐẦU BẰNG Ý TƯỞNG THỰC HIỆN NÓ VÀ ĐI QUA KHÂU ĐÓNG GÓI, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ VÀ BẢO QUẢN, TẤT CẢ CÁC QUÁ TRÌNH CHO ĐẾN VIỆC TIÊU HỦY HOẶC TÁI TẠO CỦA SẢN PHẨM.
Tại sao chuỗi cung ứng có vai trò quan trọng
Điều đó nói lên rằng, các công ty hậu cần có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tác động của việc vận chuyển, đóng gói và lưu kho. Có tính đến cả sự phụ thuộc của các hoạt động hậu cần vào nhiên liệu hóa thạch, cũng như dự báo tốc độ tăng trưởng cao, một trong những thách thức lớn nhất đối với các nhà cung cấp dịch vụ chuỗi cung ứng đa kênh là khử carbon. Hoạt động hậu cần chiếm khoảng 10-11% lượng khí thải CO2 toàn cầu.
Hơn một nửa lượng khí thải toàn cầu được tạo ra bởi tám chuỗi cung ứng: thực phẩm, xây dựng, thời trang, hàng tiêu dùng nhanh, điện tử, ô tô, dịch vụ chuyên môn và vận chuyển hàng hóa, theo một báo cáo năm 2021 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới1. Bằng cách tăng hiệu quả và giới thiệu năng lượng tái tạo, các chuỗi cung ứng này có thể giảm 40% lượng khí thải với tác động tối thiểu đến giá thành sản phẩm.
Ở châu Á, các loại xe chạy bằng động cơ diesel hạng nặng là những phương tiện tiêu thụ nhiên liệu cao nhất, trong khối vận tải hàng hóa, trong khu vực, và chiếm tỷ trọng lớn trong các báo cáo về ô nhiễm không khí và phát thải carbon dioxide. Đồng thời, chi phí vận chuyển hàng hóa lên tới 14-24% GDP ở các nước châu Á đang phát triển, so với 7-8% ở châu Âu và Hoa Kỳ. Do đó, các quốc gia này phải chịu rủi ro kinh tế đáng kể, phát sinh từ sự không nhất quán về giá nhiên liệu. Để kiểm soát tình hình này, một số sáng kiến do ngành dẫn đầu, chẳng hạn như hiệp hội Green Freight Asia đang phát triển theo hướng tích cực, nhằm kết hợp các nỗ lực, nhằm giảm mức tiêu thụ nhiên liệu cho các chuyến vận chuyển hàng hóa, xuyên Châu Á – Thái Bình Dương, do đó giảm lượng khí thải carbon dioxide từ những chuyển động này và giảm chi phí vận chuyển trên toàn bộ chuỗi cung ứng. Sáng kiến này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác với các bên liên quan ở Châu Á – Thái Bình Dương (ví dụ như chính phủ, nhà sản xuất, công ty hậu cần và các công ty đồng cấp), để thúc đẩy các hoạt động chuỗi cung ứng bền vững, cũng như đưa ra các quyết định tìm nguồn cung ứng thân thiện với môi trường, bằng cách lựa chọn các nhà vận chuyển dựa trên thông tin xác thực về vận tải hàng hóa xanh.
HƠN 50% KHÍ THẢI TOÀN CẦU ĐƯỢC SẢN XUẤT BỞI 8 CHUỖI CUNG ỨNG.
Chuyển sang một mô hình mới
Tất cả những điều này cho thấy rằng các hình thức hợp tác mới có thể góp phần thay đổi mô hình.
Giải pháp tương hỗ, hoặc tổng hợp khối lượng theo lĩnh vực ngành nghề thay vì khách hàng, là một chiến lược quan trọng khác, nó thể hiện nhiều khía cạnh của hậu cần – chẳng hạn như kho bãi, đóng gói, vận tải và xác định tuyến đường giao hàng – hiệu quả hơn, ít tốn kém hơn và thân thiện với môi trường hơn.
Nếu quá trình khử carbon vận chuyển, tối ưu hóa và tiết kiệm năng lượng trong kho hàng nằm trong những giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, thì chuỗi cung ứng cũng là đòn bẩy giúp chuyển đổi hoạt động kinh doanh, vì nó có thể thúc đẩy tác động tích cực thông qua các mô hình kinh doanh mới. Ví dụ: bằng cách tạo ra một hệ thống phân phối hàng xá chung có khối lượng lớn với một số nhà bán lẻ, góp phần giảm đóng gói và tác động đến môi trường, hoặc bằng cách phát triển các nền tảng mô-đun hậu cần đô thị mới ở các thành phố, Lời đề nghị bắt đầu cung cấp cơ hội giảm thiểu hoạt động giao hàng chặng cuối, chịu trách nhiệm về 25% lượng khí thải carbon trong quá trình vận chuyển một sản phẩm.
Trung Quốc, nền kinh tế lớn nhất châu Á và lớn thứ hai thế giới, đóng vai trò quan trọng trong quá trình khử carbon của ngành hậu cần. Vào tháng 6 năm 2021, Trung Quốc tuyên bố sẽ phấn đấu đạt mức tối đa lượng khí thải carbon dioxide trước năm 2030 và đạt được mức độ trung tính carbon trước năm 2060, một khoảng thời gian ngắn hơn nhiều so với cam kết của nhiều nước phát triển. Trung Quốc đang tham gia vào các phát triển xanh hơn và chất lượng cao trong một số lĩnh vực. Bên cạnh Trung Quốc, chương trình nghị sự khử carbon đã trở thành tâm điểm chú ý ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Nhật Bản, nền kinh tế số 2 châu Á và Hàn Quốc, nền kinh tế xếp thứ 4 về quy mô trong khu vực, đều cam kết thực hiện cùng một mục tiêu vào năm 2050.